Loundness war – cuộc chiến âm lượng trong sản xuất âm nhạc

Cuộc chiến âm lượng hay còn gọi với cái tên “cuộc chạy đua về âm lượng” là xu hướng tăng cường độ lớn âm thanh trong sản xuất âm nhạc, đi kèm với nó là giảm độ trung thực của âm thanh (dynamic). Đây là vấn đề tâm lý của cả nhà sản xuất và người nghe: khi so sánh một bài hát thì to hơn nghe có vẻ hay hơn.

Ảnh phía dưới là thống kê về dynamic range của các sản phẩm âm nhạc điển hình trong các giai đoạn của quộc chạy đua âm lượng. Đứng đầu là Album của Metalica với dynamic range = 3

âm lượng là gì
Cuộc chạy đua âm lượng và những sản phầm âm nhạc điển hình

Nguyên nhân của cuộc chiến âm lượng trong sản xuất âm nhạc.

Máy hát tự động trở nên phổ biến vào những năm 1940 và thường được chủ sở hữu đặt âm thanh đầu ra ở một mức mặc định, vì vậy bất kỳ bản ghi nào được mastering to hơn các bản ghi khác sẽ nổi bật hơn.

Một nguyên nhân nữa là với giai đoạn phát triển của phát thanh và truyền hình. Do người nghe đa phần bật thiết bị phát ở cùng một mức âm lượng khi thường thức, vì vậy hững sản phẩm âm nhạc có âm lượng lớn hơn nghe có vẻ sẽ nổi bật hơn hẳn những bài hát trong cùng chương trình.

Máy hát tự động jukeboxes

Định dạng vinyl có nhiều hạn chế trong việc nâng cao âm lượng, nỗ lực đạt được âm lượng cực lớn có thể khiến các thiết bị phát thanh không thể hoạt động được. Sự ra đời của các phương tiện kỹ thuật số như CD đã loại bỏ những hạn chế này và do đó, việc tăng mức âm lượng đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng hơn trong thời đại âm thanh kỹ thuật số. Quá trình xử lý hiệu ứng âm thanh kỹ thuật số dựa trên máy vi tính cho phép các kỹ sư âm thanh kiểm soát tốt hơn âm lượng của bài hát. Ngày nay, hầu hết các kỹ sư âm thanh đã và đang đo âm lượng bằng mắt thông qua các bộ analyzer chứ không còn nghe bằng tai nữa.

Các giai đoạn của cuộc chiến âm lượng – loudness war

Giai đoạn 1980

Đĩa CD không phải là phương tiện chính trong lưu trữ và phát hành âm nhạc phổ biến cho đến cuối những năm 1980, nên khi đó có rất ít động lực cho các hoạt động cạnh tranh về âm lượng. Thực tiễn phổ biến để mastering nhạc cho đĩa CD liên quan đến việc khớp với đỉnh peak của bản ghi ở hoặc gần bằng thang đo kỹ thuật số ( chạm peak ở 16 bit ). Đồng thời đề cập đến các mức kỹ thuật số dựa theo máy đo VU analog nghe có vẻ quen thuộc hơn.

đồng hồ đo VU
Vu chạm mức 0 tương ứng với -14db digital

Khi sử dụng máy đo VU, một điểm nhất định (thường là −14 dB dưới biên độ tối đa của đĩa 16bit) được sử dụng giống như điểm bão hòa (được biểu thị bằng 0 dB) của bản ghi tương tự, với vài dB mức ghi của CD được dành riêng cho biên độ vượt quá điểm bão hòa (thường được gọi là “vùng màu đỏ”, được biểu thị bằng một thanh màu đỏ trên màn hình đồng hồ đo), bởi vì phương tiện kỹ thuật số không thể vượt quá 0 decibel so với toàn thang đo (dBFS). Mức RMS trung bình của bài hát rock trung bình trong hầu hết thập kỷ là khoảng −16,8 dBFS.

Giai đoạn 1990

Vào đầu những năm 1990, các kỹ sư bậc thầy đã học cách tối ưu hóa đĩa CD tuy nhiên cuộc chiến về độ ồn vẫn chưa bắt đầu một cách nghiêm túc. Các đĩa CD có mức độ âm nhạc lớn hơn bắt đầu xuất hiện và các mức độ của CD ngày càng có nhiều khả năng vượt quá giới hạn kỹ thuật số dẫn đến các bản nhạc rock hoặc pop-dance có điểm peak trung bình lơ lửng gần 0 dBFS nhưng chỉ thỉnh thoảng mới đạt tới mức đó.

limiter trong mixing là gì
Waves L1 và các biến thể đã xuất hiên từ những năm 1994

Khái niệm làm cho các bản phát hành âm nhạc trở nên “hấp dẫn hơn” bắt đầu thu hút những người trong ngành sản xuất âm nhạc, một phần là do một số bản phát hành đã trở nên to hơn rõ rệt và một phần là họ cũng tin rằng khách hàng thích đĩa CD có âm thanh to hơn, mặc dù điều đó có thể không phải là sự thật. Mỗi kỹ sư, nhạc sĩ và nhãn hiệu đều phát triển ý tưởng của riêng họ về cách làm cho đĩa CD to hơn. Năm 1994, bộ limiter kỹ thuật số đầu tiên có khả năng look-ahead Waves L1 được ra đời, plugins là sự kết hợp của limiter và maximizer mà sau này chúng ta thường chỉ nhắc đến với cái tên limiter kỹ thuật số.

Giai đoạn những năm 2000

Vào đầu những năm 2000, cuộc chiến về âm lượng đã trở nên khá phổ biến, đặc biệt là với sự thành công trong việc tái phát hành các bản re-master của một số sản phẩm hit và album cũ. Năm 2008, các hoạt động mastering âm lượng lớn đã nhận được sự chú ý của giới truyền thông chính thống với việc phát hành album Death Magnetic của Metallica.

Album Death Magenic gây nhiều tranh cãi trong giới sản xuất

Phiên bản CD của album có âm lượng trung bình cao đẩy các đỉnh vượt quá điểm cắt kỹ thuật số, gây ra hiện tượng méo tiếng. Điều này đã được khách hàng và các chuyên gia trong ngành âm nhạc báo cáo, đồng thời được đăng trên nhiều ấn phẩm quốc tế, bao gồm Rolling Stone, The Wall Street Journal, BBC Radio, Wired, và The Guardian.

Giai đoạn 2010

Vào tháng 3 năm 2010, kỹ sư bậc thầy Lan Shepherd đã tổ chức Ngày Dynamic Range đầu tiên, một ngày hoạt động trực tuyến cho ngành sản xuất âm nhạc nhằm nâng cao nhận thức về vấn đề này và thúc đẩy ý tưởng rằng “Nhạc nhiều dynamic nghe hay hơn”. Ngày này đã thành công và những hoạt động tiếp theo của nó trong những năm tiếp theo đã được xây dựng dựa trên điều này, nhận được sự hỗ trợ trong ngành từ các công ty như SSL, Bowers & Wilkins, TC Electronic và Shure cũng như các kỹ sư như Bob Ludwig, Guy Massey và Steve Lillywhite. Shepherd cũng đã trích dẫn nghiên cứu cho thấy không có mối liên hệ nào giữa doanh số bán đĩa và âm lượng. Ông cũng lập luận rằng việc chuẩn hóa độ ồn dựa trên tập tin cuối cùng sẽ khiến chiến tranh trở nên vô nghĩa.

Ian Shepherd – Một trong những người dẫn đầu việc chấm dứt loudness war

Một trong những album lớn nhất của năm 2013 là Random Access Memories của Daft Punk, với nhiều nhận xét tốt về âm thanh tuyệt vời của giới chuyên môn. Kỹ sư hòa âm Mick Guzauski đã cố tình chọn sử dụng ít nén hơn cho dự án, nhận xét rằng “Chúng tôi chưa bao giờ cố gắng làm ra một album ồn ào và tôi nghĩ nó nghe hay hơn.” Vào tháng 1 năm 2014, album đã giành được 5 giải Grammy, bao gồm cả Best Engineered Album (Phi cổ điển).

Giai đoạn 2020

Vào cuối những năm 2010/đầu những năm 2020, hầu hết các dịch vụ phát trực tuyến lớn của Hoa Kỳ đã bắt đầu chuẩn hóa âm thanh theo mặc định. Tiêu chuẩn chuẩn hóa âm lượng file âm thanh khác nhau tùy theo nền tảng, điều này gần như đã kết thúc giai đoạn của cuộc đua âm lượng đúng như những gì mà Shepherd đã dự đoán từ những năm 2013.

Service Loudness (LUFS)
Amazon Music-13 LUFS
Apple Music-16 LUFS
SoundCloud-14 LUFS
Spotify-14 LUFS, -11 and -19 available in premium
Tidal-14 (default) or -18 LUFS
YouTube-14 LUFS
Chuẩn hóa âm thanh trên một số nền tảng phát trực tuyến

LUFS đo được có thể khác nhau giữa các dịch vụ phát trực tuyến do các hệ thống đo lường và thuật toán điều chỉnh khác nhau. Ví dụ: Amazon, Tidal và YouTube không tăng âm lượng bản nhạc sau khi upload. Đọc thêm bài viết về các thang đo tiểu chuẩn của chúng tôi để biết thêm kiến thức cần thiết nhé

Nguồn tham khảo
https://www.soundonsound.com/sound-advice/dynamic-range-loudness-war

– Duc Tran –